Thứ Năm, 2 tháng 12, 2010

Những Ngày ở Đảo Guam

Trà Nguyễn
 
Đầu tháng Sáu, tôi đi đảo Guam do lời mời ân cần của Edward để thăm viếng gia đình cậu ấy. Trong 20 năm định cư, đây là lần đầu tiên tôi chịu đi xa, xa tận... một hòn đảo nằm trong Thái Bình Dương. Thế là sau 18-20 giờ bay rêm cả người và 2 lần đổi máy bay ở Houston và Hawaii, tôi đã đến Guam, một thời là chứng tích lịch sử của làn sóng người Việt chạy trốn cộng sản. Edward đi trước, đón 2 cha con tôi ở phi trường, lái xe vù xuống bải biển, nói là “để kịp xem cảnh mặt trời lặn, đẹp lắm!”. Tôi chưa kịp định thần để thưởng thức cảnh hoàng hôn trên biển, nhưng có cảm tình ngay với chủ nhân bải biển, một mẫu người hiếu khách, chân thật mà tôi đã từng gặp trong những năm xính vính tại Cà Mau. Tay cầm lon beer, “Uncle Manny”, bác của Edward gần 70 tuổi, đưa tôi qua hàng dừa, vừa đi vừa nói chuyện vui vẻ: “I enjoy my life, every minute, every second”. Ông tâm sự, mấy năm trước có một người Nhật đề nghị mua property của ông với giá một triệu đô la, nhưng ông không bán. Ông đặt tên là MANNY'S PARADISE và bảo sau khi ông chết, để con cháu ông có chổ để tụ họp. Tôi ước lượng bải của ông dài khoảng 300 m, rộng 80 m, mặt trước giáp nước biển, mặt sau dựa vách núi. Ông đặt tên con đường dẫn vào bải là Budweizer Boulevard. “Uncle Manny” nói đây là phần đất của tổ tiên để lại, chia đều trong gia tộc; vì thế dù trả bao nhiêu cũng không bán. Với nụ cười hiền hậu, Uncle Manny nói “Hàng ngày tôi chở nước từ nhà xuống bơm vào citerne để dùng cho việc nấu nướng tắm rửa, ỉvà thường ở lại một mình, xách súng vào rừng, hoặc cầm cây lao xuống biển, kiếm con cá đem lên nướng nhậu”.   
 
Chuyện vãng chẳng bao lâu thì một người bạn của ông đến. Edward giới thiệu “Uncle Danny Brown” là người có nhiều kinh nghiệm mưu sinh.  Uncle Danny nói: “Trong thời chiến tranh, dân đảo Guam không bao giờ sợ chết đói. Trên rừng có thú, dưới biển có cá, tha hồ bắt ăn”.  Nói xong ông đi ra sau, đem đến một con cua lạ gọi là ‘coconut crab’ và giải thích đây là loại cua sống trên núi, chỉ xuống bải về đêm để ăn dừa. Nhiều con lớn, càng rất mạnh, có thể kẹp bể cổ chai bia (?) Tôi tiếp lời ông: “Thảo nào Trung sĩ Shoichi Yokoi sống được trong rừng suốt 28 năm sau khi Nhật đầu hàng Mỹ”.
 
Gió biển và sự thân thiện của chủ nhân và người bạn mới như một thứ bùa phép khiến tôi cảm thấy khỏe khoắn lạ thường. Tôi quất đến chai Heineken thứ bảy vẫn chưa thấy gì. Bình thường ở nhà và lúc có bạn thân, uống đến chai thứ sáu là tôi đã “ngất ngư con tàu” rồi!.  Chuyện trò mãi, quá vui, chúng tôi quên về. Đến lúc thấy trăng đã lên cao trên đỉnh núi, tôi làm chai nữa để gọi là tạm biệt “Uncle Manny” và “Uncle Danny”, hẹn còn gặp dài dài. 
 
Đường về, con đường đất bột chạy ngoằn nghoèo giữa cánh rừng nằm sát Andersen Air Force Base, là nơi xuất phát các phi vụ B 52 trong chiến tranh Việt Nam. Chợt thấy mấy con heo rừng thấp thoáng dưới ánh đèn pha, tôi bảo Edward ngừng lại để chụp hình.  Diễm Chi la lên: “Ba đừng đến gần. Heo mẹ dữ lắm, nó sẽ tấn công ba đó”. Tiếc quá, tôi chưa kịp xuống xe thì bầy heo đã lẫn vào rừng, khuất dạng!
 
VÀI NÉT VỀ ĐẢO GUAM
 
Sau chuyến bay mệt nhừ và sau trận beer giao hảo, tôi ngủ say như chết. Buổi sáng thức dậy sớm, tôi đẩy cửa khách sạn, bước ra ngoài để hít thở không khí vùng nhiệt đới, cái không khí không lấy gì làm thân mật nhưng cũng đủ gợi nhớ Việt Nam.  Nóng và ẩm. Cặp mắt kiếng của tôi đã bị hơi nước làm mờ và sống lưng tôi đã bắt đầu nhơn nhớt. Tôi trở vào, định bụng sau khi tắm xong, sẽ sắp đặt chương trình tìm hiểu đảo Guam, những người cần tiếp xúc và những nơi mình cần đến…
 
Tôi bước xuống computer room của khách sạn tìm tài liệu và đọc thấy Guam là một đảo nhỏ, nằm ở vị trí 3/4 trên đường biển từ Hawaii thẳng đến Phi Luật Tân,
 
           Diện tích 541 km2. So với đảo Phú quốc 585 km2 Guam cũng một chín một mười, tuy chiều dài ngắn hơn (Guam dài 60 km, Phú quốc 90 km). 
            Thủ đô: Hagatna (Agana
            Dân số: 173. 456 người, tính đến tháng 6, 2007. 
            Bờ biển: 125 km 
            Đỉnh cao nhất: Mount Lamlam 1,334 feet (406 m) 
            Sắc tộc chính: Chamorro 37%, Philippino 26%, người da trắng 6.9%, các gốc Á châu khác  6.3%; còn lại là các sắc tộc thiểu số hoặc lai giống. -Kể từ 1950, mọi người sanh tại đảo Guam đều được cấp quốc tịch Hoa Kỳ. ểCông dân trưởng thành: 18 tuổi, bầu Thống đốc nhiệm kỳ 4 năm, nhưng không bầu Tổng thống, không phải đóng thuế liên bang. 
            Thống đốc đương nhiệm: Felix Camacho. 
            Căn cứ quân sự: Naval Base Guam và Anderson Air Force Base. … Lịch sử đảo Guam được viết vào khoảng năm 2000 BC., từ huyền thoại của người “PreểContact Chamorro”. Ngày nay các nhà khảo cổ vững tin rằng người Chamorro là nguồn gốc nguyên thủy. Hiện ngôn ngữ Chamorro vẫn còn được xử dụng bởi những người già. Bằng chứng là ngay đêm đầu tiên, Uncle Manny đã dạy tôi được vài chữ như ‘fa-ha’ (mộng dừa) khi ông chẻ trái dừa lên mộng cho chúng tôi ăn, siểyu‘us ma‘asi (cám ơn), và ay-yu-yu (con cua ăn dừa)... Tiếng Mỹ gọi chung người ở đảo Guam là Guamanian, nhưng từ Chamorro có nghĩa là người bản xứ hay tiếng Chamorro.
 
Từ thế kỷ 16 đến nay, lịch sử đảo Guam có thể tóm tắt như sau: Năm 1521, người Tây Ban Nha đến Guam bằng thuyền buồm và họ đã sinh sống ở đó trên một thế kỷ. Mãi đến năm 1668, đội quân viễn chinh đầu tiên mới thực sự chinh phục Guam và đổi thành “Las Marianas”, lấy tên Mariana của hoàng hậu nước Áo, góa phụ của vua Tây Ban Nha Philip IV. 
 
Trong chiến tranh MỹểTây Ban Nha, Mỹ chiếm Guam trong một trận chiến không đổ máu, thông qua Hiệp ước Treaty of Paris năm 1898. Từ đó Guam được xử dụng như một tiền trạm cho tàu đi lại giữa Mỹ và Philippines.
 
Trong thế chiến thứ II, quân đội Nhật tấn công Guam và chiếm giữ từ 7/12/1941 đến 21/7/1944, là ngày quân đội Mỹ đổ bộ lấy lại Guam, trước khi Nhật đầu hàng.
 
GẶP GỠ NGƯỜI ĐỒNG HƯƠNG
 
Sau khi đọc tài liệu về đảo Guam, tôi lên phòng mười phút sau thì nhận được điện thoại của Edward báo sẽ đến rước đi xuống bải chơi.  Tôi yêu cầu chở đến một tiệm thực phẩm VN để mua vài món, đồng thời để làm quen và tìm hiểu. Con đường chính của thành phố chạy dọc bờ biển đưa chúng tôi đến tiệm Mai. Người Việt đầu tiên mà tôi gặp là một trung niên; tuy không phải là chủ, nhưng khi biết tôi từ xa đến và có ý định gặp gỡ người đồng hương, anh vui vẻ, niềm nỡ hẳn lên. Sau đó anh giới thiệu chúng tôi với ông chủ tiệm. Chuyện trò một lúc lâu, tôi tặng mỗi người một quyễn Carolina Việt Báo rồi từ giã ra đi.
 
Tám giờ sáng hôm sau, tôi đi xuống nhà hàng của khách sạn uống café, đọc báo. May mắn, tôi gặp cô chủ là một người Hoa nói tiếng Việt khá sỏi và có máu..tếu. Tôi ngứa nghề: 
              Lý do nào khiến cô chọn làm ăn ở đây?
Đáp: 
              Tui ở Sàigòn, sau 75 quen với một người Hồng Kông, sau đó, ló cứi tui và bảo lãnh qua Guam. 
              Vậy là cô ở đây luôn với ông xã? Cô trả lời tỉnh bơ: 
              Dĩ nhiền rồi! 
              Cô kêu ông xã ra chụp một tấm hình kỷ niệm đi. 
              Kiu ông xã chụp hình làm kí gì chớ! Nói là nói vậy, nhưng cô cũng dùng tiếng Hoa nói vọng vào trong bếp kêu chồng ra. Tôi trình bày ý định muốn gặp vài người ở lâu trên đảo, cô sốt sắng nói: 
              Để tui kiu mấy người ló tới uống lước chà lói chiệng với chú. Chiều mai 7 giờ chú xuống đây. 
              Sợ họ không có thì giờ rảnh. 
              Mấy ông ló già hết rồi, lâu có làm kí gì! Tuy nhiên, sáng hôm sau tôi biết được cuộc uống trà bất thành vì cô chỉ liên lạc được có một người. Và người đó là ông Trần Văn Cư, một người rất nhiệt tình. Cô gọi cho ông Cư và trao điện thoại để tôi nói chuyện. Ông nói ngắn gọn, kiểu nhà binh: “Alô! Tôi Trần Văn Cư đây. Tôi nhận được tờ báo và cố ý tìm ông 2 ngày nay mà không biết ông ở đâu. Ông cứ ngồi đó, 10 phút sau tôi đến”. Tại nhà hàng, sau giây phút xã giao cỡi mở, chúng tôi trở thành bạn nhanh chóng. Anh Trần Văn Cư là cựu quân nhân, phục vụ tại Bộ tư lệnh Sư đoàn Dù, di tản năm 1975 đến Guam và ở đây suốt 32 năm qua. Dù đang làm việc (chủ Guam Muffler & Auto Services), anh Cư cũng sắp xếp thì giờ để đưa tôi đến những chỗ quan trọng. Ngay buổi sáng hôm ấy, tôi yêu cầu anh chở lại Asan Beach, mặc dầu tôi đã được vợ chồng James và Nina đưa đi thăm viếng hôm trước.
 
Asan Beach 32 năm trước từng là nơi đón nhận bước chân đầu tiên của người Việt Nam đi tìm Tự do. Ngày nay dù không còn những barraks tị nạn, thế vào đó là công viên di tích lịch sử chiến tranh, nhưng những nấm mồ đề tên Việt của những người kém may mắn nằm dưới bải cỏ bên kia đường đã làm chứng nhân cho một giai đoạn lịch sử đau đớn của Việt Nam. Sau khi đi viếng khoảng 15 ngôi mộ, (đúng ra là những tấm xiểmăng khắc tên người chết nằm sát cỏ; có nhiều tấm chúng tôi phải vạch cỏ ra mới thấy tên họ), anh Cư đề nghị chở tôi một vòng quanh công viên Asan cho biết, nhưng tôi từ chối bởi lẽ ngày Chủ Nhật tôi đã lội bộ mỏi giò hết khu vực nầy rồi. James và Nina đã đưa tôi đi từng chỗ, giải thích cặn kẻ lịch sử chiến tranh với Tây Ban Nha và Nhật. Tôi đã cố tìm di tích của người Việt, nhưng tuyệt nhiên không thấy một dấu vết nào cả!
 
Asan Beach giờ là một công viên rộng thênh thang với bải cỏ xanh mướt, với những hàng dừa rợp bóng dọc bờ biển. Đây đó có những nhóm du khách ở trần, nướng BBQ, tổ chức picnic, có bà mang kiếng râm nằm xấp nghỉ ngơi, và nhiều cô mặc sìểlíp, xúểchiêng nằm ngửa... phơi rốn.
 
Chúng tôi lên xe, anh đưa đến tiệm ăn Kinh Đô để giới thiệu với bà xã. Dù bận buôn bán, chị Trần Văn Cư cũng niềm nỡ hỏi han và đề nghị anh đưa đến một vài nơi tôi cần biết. Chúng tôi uống nước rồi lại lên đường. Trên xe anh kể: “Tính từ năm 75, có 150.000 người tị nạn đến Guam, kẻ đến, người đi. Hiện nay số người Việt ít dần, chỉ còn trên dưới 1.000. Đa số, họ đã vô đất liền làm ăn sinh sống; mặt khác, con cái họ theo học tại các trường Đại học bên Mỹ rồi sau đó họ cũng theo luôn”. Tôi hỏi anh gần đây có người Việt nào đến đảo Guam , ý muốn nói người vượt biển. Thay vì trả lời, anh hỏi ngược lại: “Anh có thấy hàng rau quả phía bên ngoài Tiệm Mai không? Những trái bầu, trái bí và các loại rau bày bán ở đó là do một nhóm thanh niên Hải Phòng trồng trên núi. Cách đây không lâu, những người nầy đi tàu buôn do người ngoại quốc tuyển dụng, sau khi lên bờ, họ trốn lại và lên núi trồng trọt sinh sống”. Tôi hỏi tiếp: “Ở bất hợp pháp như vậy, họ vẫn xuống phố  làm ăn buôn bán hay sao?” Đáp: “Tôi có tiếp xúc với một, hai người. Lần đầu giọng nói của họ rất khó nghe. Sau quen dần. Có lẽ họ buôn bán qua một trung gian nào đó. Còn việc cư trú bất hợp pháp, tôi nghĩ họ đánh liều, vì dù sao cũng còn sướng hơn ở Việt Nam”. Câu chuyện đứt ngang, khi anh Cư lái xe qua một khu thương mại. Qua cửa kiếng, tôi nhìn thấy hai tiệm Nails và vài quán ăn Việt Nam. Mục đích của anh là đưa tôi đi trên VIETNAM MEMMORIAL HWY và bảo đây là con đường dài nhất thành phố để tưởng niệm các chiến sĩ sanh trưởng tại đảo Guam, đã chết hoặc mất tích trong cuộc chiến Việt Nam. Đến một bức tường lớn có hình vẽ, anh dừng xe lại giải thích: “Bên kia đường là trụ sở Hội Cựu Chiến Binh và bức tường nầy đề tên tưởng niệm 16 -18 vị anh hùng đã nằm xuống”.
 
Anh Trần văn Cư là một người có lòng với quê hương và đồng đội. Tôi đã xem bản nghị quyết công nhận Cờ Vàng của chính quyền Guam ký ngày 30/4/2006 mà anh và các cựu quân nhân đã tranh đấu thành công. Và tôi đã đọc thư cám ơn của gia đình Mũ Đỏ, chi hội Canada cùng biên nhận số tiền 1.140 USD giúp TPB/QLVNCH còn ở lại Việt Nam. Anh cũng đã trao cho tôi copy bức thư gởi cho chủ nhiệm báo Văn Nghệ Tiền Phong ngày 03/5/07 để nhờ vận động đồng hương tại Guam và trên các nước để xây dựng lại đài tưởng niệm ASAN là trại tị nạn lịch sử của người VN. Trong khi nhà cầm quyền CSVN sợ sệt, tìm đủ mọi cách xóa bỏ di tích tị nạn của người VN trên khắp thế giới, thì việc hô hào xây dựng lại của anh Cư và của những đồng hương khác tại đảo Guam là một việc làm rất có ý nghĩa.
 
HẦM NHỐT TÙ VÀ TRÚ ẨN CỦA NHẬT
 
Qua ngày hôm sau, chúng tôi lại xuống bải biển nướng BBQ, ăn cơm đỏ (cơm trắng nhuộm đỏ bởi hột điều, cây có bên VN, hột nhỏ như hột ổi, cho màu đỏ, các bà nấu bún bò Huế thường dùng để pha màu), và dĩ nhiên là uống beer với “Uncle Manny” và “Uncle Danny” gần... tới bến. Tôi đòi về khách sạn ngủ sớm để ngày mai còn đi thăm căn cứ Hải quân, theo sự sắp đặt của Nina. Trước hết chúng tôi đến Japanese Cave Latte Park là khu công viên có 2 đường hầm nhốt tù lịch sử của Nhật. Tôi thấy có 2 cửa vào sát cạnh nhau; nhưng không thấy cửa trổ ra. Mỗi đường hầm rộng khoảng 2 m, cao khỏi đầu người, được xây xiểmăng kiên cố theo hình chữ chi, quẹo mặt rồi lại quẹo trái. Tôi chỉ vào mấy ngỏ quẹo rồi dội ngược trở ra, không muốn đi tiếp. Ra ngoài đọc bản giải thích, tôi mới biết năm 1940, Nhật đã xử dụng người Chamorro, người Hawaii và tù khổ sai Triều Tiên xây kiểu hầm nầy khắp nơi trên đảo để nhốt tù và để trú ẩn, trốn phi cơ oanh tạc.
 
Tôi bỗng chú ý đến các cột bằng đá hình thù ngộ nghỉnh gọi là “Latte stone”. Thì ra đây là những cột đá cao cẳng mà người Chamorro tiền sử cất nhà sàn trên đó. Một đặc tính văn hóa còn sót lại. 
 
Rời Japanese Cave Latte Park, chúng tôi lên một ngọn đồi gần đó để nhìn toàn cảnh căn cứ Hải quân, nơi có các khẩu đại bác cổ lổ xỉ của Nhật đang hướng nòng ra biển. Hai ngày sau đi với bọn trẻ, tôi mới khám phá ra rằng đại bác Nhật có ở nhiều nơi trên đảo, và tại mỗi cao điểm, có ít nhất ba ụ súng. Trời nắng gắt. Chúng tôi ra về và hẹn gặp nhau chiều tối tại Chamorro Vilage. Ở Hagatna, cứ mỗi tối thứ Tư, người ta đổ xô đến nơi tụ họp để ăn uống, nhảy nhót. Tám giờ tối, chúng tôi mới đến. Edward tìm chỗ đậu xe và dặn Chi luôn luôn mở phone tay để liên lạc nhau.  Vừa xuống xe, tôi có cảm giác là chúng tôi sẽ lạc nhau giữa rừng người chen chúc. Thật vậy, người ta nối đuôi nhau trước các quày bán thức ăn để mua thịt heo quay, sườn nướng, cá chiên, bún xào, xôi đỏ và nhiều món ăn khác mà tôi không thể biết hết được. Lách qua đám người bu quanh quày bán đồ kỷ niệm và quần áo, chúng tôi nghe âm nhạc xập xình vang ra, nhưng không biết từ nơi nào. Đến chừng thấy hàng trăm đầu người lố nhố, lắc lư theo điệu nhạc, tôi mới biết vị trí của ban nhạc. Cửa phòng nhạc mở rộng, dường như để đủ không khí cho mọi người thở, tôi kéo Chi ghé mắt vào xem. Anh ca sĩ mặc áo bỏ ra ngoài hát bản La Paloma khá đạt. Khi nhạc rock trổi lên, nhiều cặp rất ục ịch cũng lôi nhau ra sàn nhún nhảy! Khách thưởng thức nhạc lớp ngồi, lớp đứng, tha hồ ăn uống tại chỗ. Nóng kinh khủng! Hai cha con tôi kéo nhau ra ngoài vì không chịu nổi bầu không khí ngộp thở và để gọi phone tìm Edward; ấy vậy, hơn nửa giờ sau chúng tôi mới gặp lại. Chán quá, chúng tôi giắt nhau ra về.
 
NAVAL BASE GUAM
 
Sáng hôm sau, tôi lại được bà Janet chở vào trong căn cứ Hải quân Hoa Kỳ, tên Naval Base Guam. Khi xe chúng tôi đến cổng, một người Mỹ cỡi mô tô phía rước rà chậm lại, quân nhân kiểm soát đứng nghiêm, chào kín. Đến lượt bà Janet lôi trong cổ áo tấm thẻ, xem xong, anh khoát tay cho xe chạy qua. Lần đầu tiên được vào một căn cứ quân sự lớn của Hoa Kỳ nên nơi nào tôi cũng muốn đến, chỗ nào tôi cũng muốn xem. Đến tấm bảng Marine Corps Aviation Station, bà dừng xe, đề nghị tôi xuống 1 chụp tấm hình  kỷ niệm tại trạm hàng không của Thủy quân Lục chiến. Cũng tại nơi nầy, tôi đã quan sát một chiếc tàu ngầm nhỏ của Nhật bị bắt, được kê trưng bày trên nền xiểmăng. Tại một chỗ khác, tôi chụp hình hai cầu tàu bị Nhật oanh kích, cháy hết, chỉ còn lại những cột sắt hoen rỉ đứng chơ vơ; chứng tích đổ nát của một cuộc chiến hơn 60 năm! Sau cùng, khi tôi ngỏ ý muốn đi xem hải cảng, muốn vào tận nơi vận chuyển hàng hóa của các tàu biển lớn và chụp hình đem về khoe với mấy người bạn Hải quân từng đi Guam nhận tiếp liệu và đồ viện trợ, bà Janet bảo đây là khu quân sự, cấm ngặt người lạ và cấm chụp hình. Nhưng từ xa, ngồi trên xe thấy mấy cần cẩu khổng lồ, uy nghi, cao chót vót, tôi đã lỡ chụp rồi! Các ông bạn Hải quân đừng cho có rằng Trà Nguyễn đi xa về nói dóc nhé! ể A beau mentir qui revient de loin! ểĐI HẾT VÒNG ĐAI BỜ BIỂN Như tôi đã nói ở phần trước, bờ biển Guam chỉ vỏn vẹn 125 km, dài bằng Sàigon ra Cấp. Độc giả có thể tưởng tượng một người đạp xe tàng tàng, đi từ sáng đến chiều, sớm muộn gì cũng tới. Lái xe thì nhanh hơn, tối đa 2 giờ; nhưng còn tùy có cà kê dê ngổng dọc đường hay không. Và đó là điều tôi muốn nói trong chuyến đi từ Bắc xuống Nam rồi từ Nam trở về Bắc trên đảo Guam nầy.
 

 
Hai cha con TràNguyễn
 
Hôm ấy tài xế Edward đến sớm, mới 9 giờ đã có mặt tại khách sạn; khác hẳn mấy ngày qua, cu cậu ngủ dậy trể vì ham đi biển; có bữa trể hẹn đến rước tôi đi đây đi đó. Sau khi ăn sáng, chúng tôi theo con đường dọc bờ biển phía Đông, trực chỉ về hướng Nam.  Agat Unit Acapa Point là điểm đến đầu tiên, và cũng là nơi có nhiều hầm chiến đấu ngụy trang dọc theo bờ biển. Tôi có chụp hình với một khẩu đại bác bên cạnh giàn cao xạ đã rỉ sét. Ngắm cảnh chán, chúng tôi lội bộ trở ra chỗ đậu xe. Trời đã hâm hấp nóng. Edward cỡi áo vắt vai đi trước., Chi, Reggie theo sau, và tôi thì.. lẹt đẹt đi chót. Xem ra chuyến đi lần nầy “phê” hơn mấy lần đi với bà Janet và gia đình James. Xe chạy quanh co trên con đường độc đạo, len lỏi qua các rừng tre, các lùm cây bọ chét, những hàng dừa và các cây phượng vĩ nở đầy hoa đỏ thắm. Tôi méo mó nghề nghiệp: Thực vật cảnh ở đây giống hệt như thực vật cảnh ở Việt Nam vì cùng thuộc khí hậu nhiệt đới và tự hỏi không biết bao giờ mình có thể về lại quê hương để tìm lại những hình ảnh kỷ niệm thời niên thiếu. Mãi suy nghĩ miên man, xe dừng lại lúc nào không hay. Và chúng tôi lại đi bộ đến thêm một quảng nữa.
 
Có tiếng gọi của Edward và Chi ở lưng chừng đồi. Ngước nhìn những nấc thang dựng đứng, tôi đâm do dự, trả lời: “Bây lên trước đi! Có gì hay, kêu tao” khiến cả bọn cùng cười. Tuy nói vậy, tôi cũng trèo lên mấy chục nấc thang. Khi lên đến nơi, hai đầu gối tôi muốn xụm và tôi phì phò thở như trâu kéo cày! Rồi tôi bỗng nhớ lại năm 1963, trong lần đi du khảo thực vật (excursion botanique) ở Đà Lạt, nhóm chúng tôi đã lên Peak Langbiang trước tiên, sau khi cùng hai nhóm khác băng rừng, lội suối và cuối cùng trèo lên mấy trăm bậc thang mà đồng bào thượng đã bắt sẳn. “Lực bất tùng tâm” là thế!
 
Hôm ấy tài xế Edward đến sớm, mới 9 giờ đã có mặt tại khách sạn; khác hẳn mấy ngày qua, cu cậu ngủ dậy trể vì ham đi biển; có bữa trể hẹn đến rước tôi đi đây đi đó. Sau khi ăn sáng, chúng tôi theo con đường dọc bờ biển phía Đông, trực chỉ về hướng Nam.  Agat Unit Acapa Point là điểm đến đầu tiên, và cũng là nơi có nhiều hầm chiến đấu ngụy trang dọc theo bờ biển. Tôi có chụp hình với một khẩu đại bác bên cạnh giàn cao xạ đã rỉ sét. Ngắm cảnh chán, chúng tôi lội bộ trở ra chỗ đậu xe. Trời đã hâm hấp nóng. Edward cỡi áo vắt vai đi trước., Chi, Reggie theo sau, và tôi thì.. lẹt đẹt đi chót. Xem ra chuyến đi lần nầy “phê” hơn mấy lần đi với bà Janet và gia đình James.
 
Xe chạy quanh co trên con đường độc đạo, len lỏi qua các rừng tre, các lùm cây bọ chét, những hàng dừa và các cây phượng vĩ nở đầy hoa đỏ thắm.  Tôi méo mó nghề nghiệp: Thực vật cảnh ở đây giống hệt như thực vật cảnh ở Việt Nam vì cùng thuộc khí hậu nhiệt đới và tự hỏi không biết bao giờ mình có thể về lại quê hương để tìm lại những hình ảnh kỷ niệm thời niên thiếu. Mãi suy nghĩ miên man, xe dừng lại lúc nào không hay. Và chúng tôi lại đi bộ đến thêm một quảng nữa.
 
Có tiếng gọi của Edward và Chi ở lưng chưng đồi. Ngước nhìn những nấc thang dựng đứng, tôi đâm do dự, trả lời: “Bây lên trước đi! Có gì hay, kêu tao” khiến cả bọn cùng cười. Tuy nói vậy, tôi cũng trèo lên mấy chục nấc thang. Khi lên đến nơi, hai đầu gối tôi muốn xụm và tôi phì phò thở như trâu kéo cày! Rồi tôi bỗng nhớ lại năm 1963, trong lần đi du khảo thực vật (excursion botanique) ở Đà Lạt, nhóm chúng tôi đã lên Peak Langbiang trước tiên, sau khi cùng hai nhóm khác băng rừng, lội suối và cuối cùng trèo lên mấy trăm bậc thang mà đồng bào thượng đã bắt sẳn. “Lực bất tùng tâm” là thế!
 
Đến một nơi khác, tài xế tắc máy, mở cửa nhanh nhẹn đi trước và giục ba người chúng tôi lên. Chi và Reggie bước xuống; riêng tôi vẫn còn ngồi ì trong xe, hé cửa ra nói: “Thôi! Tao không coi nữa đâu!” Nhưng tự ái con người cũng khiến bước chân của tôi lê chậm trên sườn dốc thoai thoải. Vừa thấy 3 họng đại bác chong ra biển, tôi rủ hai thanh niên trèo lên chụp hình. Sau đó chúng tôi thưởng thức cảnh đẹp của biển xanh dưới vực sâu một lúc lâu và lại lên đường.
 
Sau 15 phút, xe dừng lại một quán cốc bên vệ đường. Edward mua một lít rượu gì thoạt trông giống như rượu đế, nhưng uống thử thấy ngọt mà lại thơm.  Tôi đang hỏi bà chủ quán thì một người đàn ông cao lớn ở trần, xuất hiện. Ông dẫn chúng tôi ra sau vườn chỉ bình rượu treo lủng lẳng trên cây dừa và giải thích cách lấy, cách trữ sao cho nước dừa không lên men dấm. Người Chamorro gọi thứ rượu đó là Tuba. Ông nói: Tuba cất lên sẽ tăng độ rượu thành whisky; nếu đun sôi mãi sè cho caramen, như kiểu làm nước màu dừa ở VN.  Ông chủ vườn cho biết tên là Espinosa, 73 tuổi, đã từng phục vụ tại Việt Nam những năm 68, 69; vợ người Nhật. Hiện hai ông bà sống trên lợi tức đem lại từ 10 mẫu vườn sau nhà. Từ giã ông bà Espinosa, trên xe, tôi nhâm nhi từng hớp rượu Tuba mà thấy lòng vui lạ. Không vui sao được khi tôi đã hứa thầm trong bụng: “Từ giờ nầy trở đi, đứa nào có cho ăn vàng và kêu tao leo đồi lần nữa, tao cũng không ham!”
 
BỮA TIỆC CUỐI CÙNG
 
Theo chương trình đã sắp đặt trước, ngày Chủ Nhật 10/6, chúng tôi trở lại “MANNY‘S PARADISE” để dự buổi tiệc cuối cùng trước khi trở về đất liền.
 
Buổi trưa, đã có hơn 30 chiếc xe dưới những bóng dừa. Lều đã được dựng từ ngày hôm trước và người ta đã chia nhau làm phận sự: phụ nữ nấu ăn trong bếp; thanh niên nướng thịt bên ngoài; kẻ ra, người vào tấp nập khiến tôi có cảm tưởng như một ngày hội lớn.
 
Điều tôi ghi nhận là bà con, dòng họ của “Uncle Manny” đông quá xá; người ở gần tôi đã gặp một số, còn ở xa thì.. ôi thôi… đại bác bắn cũng chưa chắc tới! Kế đến, mọi người đều hiếu khách và con cháu họ rất lễ phép. Khi đến chào người lớn, trẻ nhỏ cũng bắt tay nhưng luôn luôn cúi đầu sát bàn tay.
 
Hai giờ trưa tiệc bắt đầu. Tôi uớc lượng khoảng 100 người lớn nhỏ sắp hàng lấy thức ăn dọn sẳn trên bàn, chưa kể nhiều nhóm nhỏ quây quần uống beer, trò chuyện vui vẻ dưới bóng cây. Dưới canopy, Sang và Đức phụ Diễm Chi tiếp khách. Khi thấy thiên hạ chiếu cố tận tình món chả giò do chị Trần văn Cư đích thân làm tặng, tôi khều vai Đức nói nhỏ: “Chú Đức nhớ dành lại mấy cuốn anh em mình ăn để nhớ lòng tốt và công lao của chị Cư ”.
 
Cám ơn Guam. Cám ơn mọi người đã dành cho chúng tôi những ngày vui trọn vẹn.
 
Giã từ Guam. Giã từ “Manny’s Paradise” với vách núi,  biển xanh, và tình người đậm đà, thân ái…


30/ 6/2007 
 Trà Nguyễn.